Kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh TNHH Sao Thủy Tinh.doc
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước
ta đã có những chuyển biến sâu sắc, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - kinh tế thị trường với quy
luật hoạt động của nó đã tác động mạnh mẽ tới mọi mặt hoạt động của đời sống
kinh tế xã hội. Cơ chế thị trường đã khẳng định vai trò tổ chức lựa chọn hàng
hoá góp phần làm cho nền kinh tế có nhiều khởi sắc.
Hạch toán kế toán là một công cụ quan
trọng trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài chính, nó có vai trò tích cực
trong việc điều hành quản lý và kiểm soát các hoạt động kinh tế ở Việt Nam.
Theo Quyết định 1141/QĐ/CĐKINH Tế ngày 1/1/1995 và các hệ thống kế toán qui
định trước đã thể hiện nội dung cuae các chuẩn mực quốc tế ở những mức độ nhất
định và được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp trong phạm vi cả nước.
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất
hàng hoá đóng vai trò quan trọng, nhưng khâu tiêu thụ lại càng quan trọng hơn,
nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi hàng hoá được tiêu
thụ tức là nó đã được người tiêu dụng chấp nhận để thoả mã nhu cầu nào đó - Sức
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện uy tín của doanh nghiệp. Sự thích
ứng với nhu cầu của người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ.
Tóm lại để hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên liên tục,
hiệu quả. Thì công tác tiêu thụ phải tổ
chức tốt. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì việc
tiêu thụ hàng hoá, thành phẩm càng có ý nghĩa quan trọng quyết định sự sống còn
của đơn vị sản xuất kinh doanh. Đó là những lý do cần thiết để hoàn thiện
nghiệp vụ tiêu thụ, qua đó làm cơ sở để hoàn thiện công tác kế toán của doanh
nghiệp.
Qua thời gian học tập và nghiên cứu
tại trường, qua tìm hiểu thực tế công tác kế toán tại công ty TNHH Sao Thuỷ
Tinh, với tầm quan trọng của nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá, thành phẩm ở các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Em đã chọn đề tài "Hoàn
thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá và thành phẩm tại công ty TNHH Sao
Thuỷ Tinh" làm chuyên đề của mình.
Chuyên đề gồm các phần sau:
Phần I : Lý luận chung về hạch toán tiêu thụ sản
phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh tổng hợp.
Phần II : Thực trạng tổ
chức kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá tại công ty TNHH Sao Thuỷ Tinh.
Phần III: Các giải pháp
hoàn thiện kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá tại công ty TNHH Sao Thuỷ Tinh.
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của
sản xuất kinh doanh, là yếu tổ quyết định sự tồn tại và phát triển của một
doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích
của sản xuất và tiêu dùng, đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nới tiêu dùng. Nó
là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung giangiẵ một bên là sản xuất và
phân phối, một bên là tiêu dùng. Với mỗi cơ chế quản lý khác nhau, công tác
tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể là:
Trong cơ chế quản lý tập trung bao
cấp, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh, các cơ quan hành chính
quản lý rất sâu vào công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng lại
không trịu trách nhiệm về công việc của mình. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong
thời kỳ này, chủ yếu là giao nộp sản phẩm cho các đơn vị theo địa chỉ và giá cả
do Nhà nước quy định sẵn.
Trong nền kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp phải tự mình giải quyết mọi vấn đề liên quan đến quá trình sản
xuất, kinh doanh của mình nên việc tiêu thụ được thực hiện dưới nhiều phương
thức, hình thức khác nhau. Nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận để tồn tại và phát
triển.
Tiêu thụ trong các doanh nghiệp, chủ
yếu là tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất ra từ quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình hoặc các sản phẩm do liên doanh liên
kết, do nhận đại lý, ký gửi, v.v...
Tại các doanh nghiệp quá trình tiêu
thụ sản phẩm được bắt đầu từ khi doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ, lao vụ cho khách hàng đồng thời khách hàng phải trả cho doanh nghiệp
một khoản tiền tương ứng với giá bán của sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, do
hai bên thoả thuận.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá
được coi là chấm dứt khi quá trình thanh toán giữa người mua và người bán diến
ra quyền sở hữu hàng hoá được chuyển tư người bán sang người mua.
Quá trình này là khâu cuối cùng, là cơ
sở để thanh toán và xác định lỗ lãi. Từ đó xác định thu nhấp và phân phối thu
nhập.
Hàng hoá có thể luân chuyển trong nội
bộ doanh nghiệp giữa các đơn vị thành viên hoặc luân chuyển ra ngoài để tiêu
thụ. Việc xác định đúng đắn hàng hoá được coi là hàng bán có ý nghĩa quan trọng
trong công tác quản lý tiêu thụ hàng hoá. Hàng được coi là bán phải đảm bảo các
yêu cầu sau:
- Hàng hoá phải được tiêu thụ thông
qua phương thức mua, bán và thanh toán tiền hành theo một thể thức nhất định.
- Phải có sự chuyển giao quyền sở hữu
về hàng hoá.
- Hàng bán ra phải là hàng đã được
hạch toán, hàng mua trước đó hoặc hàng sản xuất ra để bán.
Bên cạnh đó một số trường hợp
được coi là hàng hoá như:
- Hàng hoá xuất dùng để trả lương, trả
thưởng cho công nhân trong doanh nghiệp.
- Hàng hoá bị hao hụt trong hay ngoài
định mức. Theo hợp đồng bên mua chịu.
Ngoài các trường hợp trên thì hàng hoá
không được coi là hàng bán.
Do sự đa dạng của nền kinh tế thị trường,
quá trình tiêu thụ cũng rất đa dạng. Nó tuỳ thuộc vào hình thái thực hiện giá
trị của hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng.
Các phương thức bán như: bán buôn, bán
lẻ, đại lý...
Bán buôn là phương thức bán hàng cho các
tổ chức kinh tế, các đơn vị thương mại, các đơn vị sản xuất để họ tiếp tục
chuyển bản cho người tiêu dùng hay tiếp tục gia công chế biến.
Đặc điểm chủ yếu của phương thức bán buôn
là khối lượng hàng hoá giao dịch lớn, bán theo từng lô nhưng mặt hàng không
phong phú, đa dạng như trong bán lẻ. Bán buôn được thực hiện qua 2 phương thức:
a. Bán buôn qua kho:
Là
phương thức bán hàng mà hàng bán được xuất ra từkho bản quản của doanh
nghiệp. Trong phương thức này có 2 hình thức:
- Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển
hành: Theo hình thức này, định kỳ doanh nghiệp xuất kho hàng hoá để gửi cho
người mua băng phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp hay thuê ngoài, chuyển
đến giao cho bên mua theo thoả thuận trong hợp đồng đã được ký kết, chi phí vận
chuyển do bên bán hoặc bên mua dựa theo thoả thuận trước. Hàng hoá sau khi chuyển
bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Số hàng này được xác định là tiêu
thụ khi doanh nghiệp nhận được tiền do bên mua thanh toán hoặc nhận được giáy
báo chấp nhận thanh toán của bên mua.
- Bán buôn qua kho theo hình thức giao
hàng trực tiếp. Theo hình thức này, bên mua cử đại diện đến kho của doanh
nghiệp để nhận hàng của doanh nghiệp xuất kho hàng bán giao trực tiếp cho đại
diện bên mua. Sau khi nhận đủ hàng bên mua thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ.
Thì hàng hoá được xác định là đã tiêu thụ.
b. Bán buôn chuyển thẳng.
Các doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng,
nhận hàng không đưa nhập về kho của mình mà chuyển thẳng cho bên mua. Phương
thức này được thực hiện qua hai hình thức:
- Bán buôn chuyển thẳng theo hình thức
chuyển hàng: theo hình thức này doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận
hàng bằng phương tiện vận chuyển của mình hay thuê ngoài cghuyển hàng đến giao
cho bên mua ở một địa điểm đã thoả thuận. Trong trường hợp này, hàng hoá vẫn
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Hàng chỉ được xác định là tiêu thụ khi
doanh nghiệp nhận được tiền thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán của bên mua.
- Bán giao tay ba là phương thức của
doanh nghiệp thương mại và bên mua đều đến nhận hàng tại kho của nhà cung cấp.
Là phương thức bán hàng hoá được cung
cấp trực tiếp cho người tiêu dùng.
- Đặc điểm của bán lẻ là khối lượng
hàng bán nhỏ, nhưng chủng loại mẫu mã phong phú, đa dạng. Hàng hoá khi đã được
bán thì tách khỏi lưu thông và đi vào tiêu dùng, vì vậy giá trị hàng hoá đã
được thực hiện hoàn toàn.
Thời điểm xác định là hàng hoá được
tiêu thụ là khi nhận được báo cáo bán hàng của mậu dịch viên.
- Các phương thức bán lẻ :
+ Bán lẻ trực tiếp: là hình thức bán
truyền thống. Trong đó mậu dịch viên tại quầy vừa chịu trách nhiệm vật chất về
hàng hoá vừa thu tiền bán hàng, vì vậy để đảm bảo an toàn cho hàng và tiền khi
cuối ca hay cuối ngày bán hàng mậu dịch viên phải nộp toàn bộ số tiền thu được
cho thủ quỹ. Theo bảng kê giấy nộp tiền. Sau đó kiểm kê số hàng còn tồn tại
quầy, xác định số lượng hàng xuất bán, làm cơ sở cấp báo cáo bán hàng (phản ánh
số đã được thực hiện) trên cơ sở đó xác định tiền thừa, thiếu khi bán hàng.
- Hình
thức bán tự phục vụ: Khách hàng tự chọn hàng hoá, trước khi mang hàng
hoá ra khỏi cửa hàng thì mang đến bộ phận thu tiền để thanh toán, nhân viên thu
tiền cấp hoá đơn bán hàng, thu tiền của khách hàng hết ca hoặc hết ngày nộp
tiền cho thủ quỹ và lập báo bán hàng.
- Hình thức bán trả góp: Khi bán hàng doanh nghiệp chỉ thu được một
phần tiền nhất định ban đầu. Số còn lại người mua trả dần, nhưng người mua phải
chịu lãi trả góp. Giá bán trả góp bao giờ cũng lớn hơn giá bán thông thường
phần chênh lệch chính là lãi trả góp phải thu.
- Theo phương thức này đơn vị có hàng gửi,
chuyển hàng cho đơn vị nhận bán đại lý, ký gửi bán hộ và thanh toán tiền hoa
hồng cho bên nhận bán. Thông báo đã bán được hàng hay trả tiền về hàng nhận bán
thì hàng được xác định là đã tiêu thụ. Chứng từ bán hàng là bảng thanh toán
hàng đại lý.
- Giá bán hàng đóng vai trò quyết định
trong quá trình tiêu thụ hàng hoá. Nó giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường: Vì vậy , mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình
những chính sách giá phù hợp để thu hút được khách hàng và sản xuất kinh doanh
được có lãi. Bên cạnh việc xác định giá bán cho phù hợp thì việc xác định giá
mua của hàng bán.
- Việc tính giá mua của hàng bán sẽ rất
đơn giản khi tất cả các đơn vị hàng hoá được nhập cùng một đơn giá ổn định từ
kỳ này sang kỳ khác. Tuy nhiên khi các loại hàng hoá giống nhau được nhập với
những đơn giá khác nhau thì phát sinh vấn đề là sử dụng đơn giá nào để tính giá
mua của hàng hoá tuỳ thuộc vào yếu cầu của công tác quản lý và cách đánh giá
hàng hoá, phản ánh trang tài khoản và trang sổ kế toán mà doanh nghiệp vận dụng
cách tính giá mua của hàng hoá xuất bán.
- Có 4 phương pháp thường được sử dụng:
+ Phương pháp gía thực tế đích danh.
+ Phương pháp bình quân gia quyền.
+ Phương pháp nhập trước xuất trước.
+ Phương pháp nhập sau xuất trước.
a) Phương pháp giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này, các doanh nghiệp
này phải sớm nắm bắt được các đơn vị hàng hoá tồn kho và các đơn vị hàng hoá
xuất bán. Thuộc những lần mua nào và dùng đơn giá của những lần mua đó để xác
định giá vốn của hàng hoá tồn kho cuối và trị giá mua của hàng hoá xuất
bán. mkè4epoti954kmnj mkjl;;;;;hjuhiuhhhgoii
Đây là phương pháp hợp lý nhất trong
các phương pháp vì nó phản ánh giá trị thực chất nhất. Tuy nhiên phương pháp
này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp kinh doanh ít mặt hàng, ít chủng loại và
hàng có giá trị cao.
b) Phương pháp bình quân gia quyền
Phương pháp này được áp dụng trong
trường hợp hàng tồn kho và hàng xuất bán không xác định được là mua lần nào. Vì
vậy phải phân tích đơn giá bình quân của từng loại hàng hoá.
c) Phương pháp nhập trước xuất trước.
Theo phương pháp này, giả định các đơn
vị hàng hoá tồn kho đầu kỳ sẽ được xuất bán trước tiên. Số hàng bán tiếp theo,
giả định chúng được mua theo thứ tự. Như vậy hàng tồn kho cuối kỳ bao gồm những
đơn vị hàng hoá mua vào sau cùng. Tuy
nhiên trong thực tế sự vận động của hàng hoá không theo thứ tự nhập trước xuất
trước.
d) Phương pháp nhập sau xuất trước
Phương pháp nhập sau xuất trước được
giả định hàng hoá xuất bán là những hàng hoá được mua sau cùng và cứ như vậy
hàng hoá tồn kho cuối kỳ, là những hàng hoá được mua laau nhất, cũ nhất. Trị
giá vốn của hàng hoá mua vào sau cũng được tính cho trị giá vốn của hàng bán.
Trên thực tế hàng hoá không xác định theo thứ tự nhập sau xuất trước.
Bốn phương pháp định giá trên đều được
thừa nhận. Trong điều kiện giá cả ổn định không thay đổi từ kỳ này sang kỳ khác
thì cả bốn phương pháp sẽ cho cùng một kết quả. Tuy nhiên trong điều kiện thị
trường không ổn định giá cả lên xuống thất thường thì mỗi phương pháp sẽ cho
mỗi kết quả khác nhau và như vậy mỗi phương pháp đều có ảnh hưởng nhất định đến
báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp lựa chọn phương pháp nào đều phải công khai
trong bảng thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp và phải nhất quán
giữa các kỳ kế toán, giúp cho việc kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động kinh
doanh được chính xác.
Trong các doanh nghiệp thương mại thời
điểm ghi chép vào sổ sách kế toán về hàng hoá là thời điểm hàng hoá được xác
định là bán, thời điểm đó được quy định theo từng phương thức, hình thức bán
hàng sau:
- Bán buôn qua kho, bán vận chuyển thẳng
theo theo hình thức giao hàng trực tiếp: Thời điểm ghi bán hàng là khi đại diện
been mua ký nhận đủ hàng và thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ. ghfgểtggggg
- Bán buốn qua kho và bán buôn chuyển
thẳng theo hình thức chuyển hàng: Thời điểm ghi chép hàng bán là khi nhận đủ
tiền của bên mua hoặc bên mua xác nhận là đã nhận đủ hàng và chấp nhận thanh
toán.
- Bán lẻ hàng hoá: Thời điểm ghi chép
hàng bán là thời điểm nhận được báo cáo bán hàng của mậu dịch viên.
- Phượng thức gửi đại lý: Thời điểm ghi
chép hàng bán là thời điểm nhận ddược tiền do bên nhận đại lý thanh toán hoặc
chấp nhận nợ.
- Kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá
có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phản ánh thu thập và xử lý, cung cấp
thông tin cho chủ doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp lựa chọn phương án kinh doanh
phù hợp để mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ tiêu
thụ hàng hoá sản phẩm gồm:
+ Ghi chép phản ánh đầy đủ tình hình
bán hàng của doanh nghiệp. Ngoài kế toán tổng hợp ghi trên các tài khoản của kế
toán, kế toán tiêu thụ cần phải theo dõi chi tiết. Việc ghi chép theo số lượng,
chủng loại, theo từng đơn vị trực thuộc, giám sát hàng ở mọi trạng thái: Hàng
đang đi đường, hàng đang ở trong kho, hàng ở quấy.
+ Xác định chính xác thời điểm hàng
được coi là tiêu thụ, phản ánh doanh thu.
+ Xác định đúng và tập hợp đầy đủ giá
vốn hàng bán, chi phí bán hàng phát sinh trong quá trình tiêu thụ cũng như chi
phí quản lý doanh nghiệp. Phân bổ chi phí hợp lý và giúp xác định kết quả kinh
doanh và xác định các khoản phải nộp ngân sách.
+ Kiểm tra tình hình tiêu thụ bán hàng
và quản lý tiền bán hàng. Đối với hàng hoá bán chịu cần phải mở sổ sách chi
tiết theo từng khách hàng, từng lô hàng, số tiền nợ và thời hạn phải trả.
+ Tổ chức tốt công tác quản lý chứng
từ ban đầu và trình tự luân chuyển chứng từ, đảm bảo việc kiểm tra và ghi sổ kế
toán được thuận tiện, tránh trùng lặp, bỏ sót.
+ Phản ánh tình hình thực hiện các chỉ
tiêu kế hoạch tiêu thụ; mức bán ra, doanh thu bán. Các chỉ tiêu kế toán phải
phù hợp với các chỉ tiêu kế hoạch để đảm bảo tính chất có thể so sánh được khi
xem xét.
Đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ trên
giúp cho các nhà quản lý nắm bắt kịp thời, nhanh chóng các quá trình vận động
của hàng hoá, tiền tệ nhằm đưa ra những quyết định chính xác trong nghiệp vụ
tiêu thụ hàng hoá để phù hợp với thị trường.
- Giá thành hàng hoá nhập kho được xác
định phù hợp với từng nguồn nhập:
+ Hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất, chế
tạo được đánh giá theo chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế bao gồm: Chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
+ Hàng hoá thuê ngoài gia công, được đánh
giá theo chi phí thực tế gia công gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp đem
gia công. Chi phí thuê noài gia công và các chi phí khác liên quan trực tiếp
đến quá trình gia công như chi phí vạan chuyển, chi phí làm thủ tục xuất kho
nguyên vật liệu đem gia công, nhập kho thành phẩm để hoàn thành gia công.
- Đối với hàng hoá xuất kho cũng phải
được thể hiện theo giá vốn thực tế. Hàng hoá xuất kho cũng có thể theo những
giá thực tế khác nhau ở từng thời điểm trong kỳ hạch toán, nên việc hạch toán
xác định giá trị thực tế hàng hoá xuất kho có thể áp dụng một trong các phương
pháp chủ yếu sau :
+ Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này, giá thực tế vật
liệu xuất dùng trong kỳ được tính theo giá bình quân ( bình quân cả kỳ dự trữ,
bình quân cuối kỳ trước hoặc bình quân sau mỗi lần nhập).
Giá thực tế vật liệu xuất dùng
|
=
|
Số lượng vật liệu xuất dùng
|
x
|
Giá đơn vị bình quân
|
Trong đó:
Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ
|
=
|
Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ và nhập
trong kỳ
|
Lượng thực tế vật liệu tồn đầu kỳ và
nhập trong kỳ
|
Phương pháp giá đơn vị
bình quân cả kỳ dự trữ tuy đơn giản, dẽ
làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa, công việc tính toán dồn vào cuối
tháng gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán chung.
Giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước
|
=
|
Giá thực tế đơn vị tồn đầu kỳ (hoặc
cuối kỳ trước)
|
Lượng thực tế vật liệu tồn đầu kỳ (hoặc
cuối kỳ trước)
|
Phương pháp này mặc dầu quá đơn giản
và phản ánh kịp thời tình hình biến động vật liệu trong kỳ tuy nhieen không
chính xác vì không tính đến sự biến động của giá vật liệu kỳ này.
Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập
|
=
|
Giá thực tế vật liệu tồn trước khi nhập
cộng số nhập
|
Lượng thực tế vật liệu tồn trước khi
nhập cộng lượng nhập
|
Tags:
Download,
Kế toán bán hàng và công nợ phải thu,
Luận Văn Kế Toán
Ý kiến bạn đọc [ 0 ]
Ý kiến của bạn