Kế toán bán hàng công ty xuất nhập khẩu nông sản nội địa
LỜI
NÓI ĐẦU
Từ khi
chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đã làm cho
nền kinh tế sôi động hơn với sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong nền
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thương mại muốn tồn tại để tự khẳng định
mình và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường đòi hỏi hàng hoá bán ra phải được
thị trường, được người tiêu dùng chấp nhận. Mục tiêu của doanh nghiệp là hoạt
động kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn để tạo tiền đề cho việc
mở rộng thị phần trong nước cũng như nước ngoài. Để bắt kịp xu thế phát triển
và không bị đẩy ra khỏi “cuộc chơi ”, các doanh nghiệp thương mại phải tổ chức
tốt nghiệp vụ bán hàng, bán hàng là khâu quyết định trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Bán hàng hay còn gọi là tiêu
thụ là khâu cuối cùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
Để tiêu thụ đạt hiệu quả, hàng hoá bán ra phải có chất lượng cao, giá thành hạ,
đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Bởi có tiêu thụ
tốt sản phẩm doanh nghiệp mới đảm bảo
hoạt động kinh doanh được thường xuyên liên tục. Qua đó doanh nghiệp sẽ tăng
nhanh vòng quay vốn, có thu nhập để bù đắp chi phí và tích luỹ vốn đầu tư phát
triển. Bán hàng có ý nghĩa đối với doanh nghiệp thương mại, với nền kinh tế
cũng như toàn xã hội. Nó có ảnh hưởng trực tiếp mang tính quyết định đến kết
quả hoạt động của doanh nghiệp thương mại. Nó cung cấp một lượng sản phẩm hàng
hóa thiết yếu cho nhu cầu hàng ngày của người dân và nhu cầu sản xuất của các
nghành kinh tế khác có liên quan. Để hoàn thành tốt kế hoạch tiêu thụ hàng hoá,
mỗi doanh nghiệp đều có những biện pháp tổ chức và quản lý mà trong đó kế toán
nghiệp vụ bán hàng giữ vai trò quan trọng.Việc tổ chức hợp lý quá trình hạch
toán kế toán nghiệp vụ bán hàng là yêu cầu hết sức cần thiết không riêng với
bất cứ doanh nghiệp thương mại nào.Thực tế nền kinh tế quốc dân đã và đang cho
thấy rõ điều đó. Tuy nhiên công cụ này đã được sử dụng triệt để chưa lại là vấn
đề cần đề cập đến.
Nhận thức
được vai trò, ý nghĩa của công tác bán hàng đòi hỏi các doanh nghiệp thương mại
không ngừng củng cố, nâng cao, hoàn thiện kế toán bán hàng để theo kịp tốc độ
phát triển của nền kinh tế hiện nay.
Trong quá
trình thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội, em nhận
thấy việc hoàn thiện kế toán bán hàng tăng cường hiệu quả của công tác hạch
toán kế toán nghiệp vụ bán hàng là một đề tài hay góp phần đưa việc hạch toán
kế toán nghiệp vụ bán hàng trở thành một công cụ đắc lực phục vụ cho việc lập
kế hoạch tiêu thụ hàng hoá và ra các quyết định của nhà quản lý. Được sự giúp
đỡ nhiệt tình của thầy Nguyễn Viết Tiến, các cô chú anh chị phòng kế toán Công
ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội cùng với những kiến thức đã học ở
trường, em đã thực hiện luận văn của mình với đề tài:
“Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ bán
hàng nội địa ở công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội ”
Phương pháp nghiên cứu của đề tài trên cơ sở
phân tích về mặt lý luận kế toán nói chung và kế toán nghiệp vụ bán hàng nói
riêng kết hợp với thực tiễn kinh doanh và kế toán nghiệp vụ bán hàng tại công
ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội từ đó có những ý kiến đề xuất nhằm
hoàn thiện hơn nữa kế toán nghiệp vụ bán hàng ở công ty.
Ngoài lời
nói đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương :
Chương 1 : Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện kế
toán nghiệp vụ bán hàng trong doanh nghiệp thương mại.
Chương 2 : Thực trạng kế toán nghiệp vụ bán hàng
nội địa tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội
Chương 3 : Phương hướng hoàn thiện kế toán nghiệp
vụ bán hàng nội địa ở công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội
Do thời
gian thực tập có hạn, kinh nghiệm thực tế chưa có, khả năng lý luận còn nhiều
hạn chế nên bản luận văn này khó tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận
được ý kiến đóng góp bổ sung của các thầy cô giáo, các cô chú anh chị phòng kế
toán của công ty để đề tài của em được hoàn thiện hơn nữa.
CHƯƠNG
1
CƠ SỞ
LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG
1.1.1 Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp
thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.1 Đặc điểm của nền
kinh tế thị trường
Đất nước
ta đang từng bước phát triển theo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều này thì Đảng và Nhà nước đang
từng bước đổi mới và hoàn thiện một nền kinh tế thị trường theo mô hình tư bản
chủ nghĩa sang một nền kinh tế thị trường mang "phong cách" xã hội
chủ nghĩa. Nền kinh tế mà ở đó những khuyết tật của thị trường được hạn chế tới
mức thấp nhất. Điều này không phải dễ bởi nó là bài toán khó của các quốc gia
anh em có cùng một mô hình như chúng ta đó là Trung Quốc, Cu Ba và một số nước
khác. Đến bây giờ theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì hiện nay chỉ
có Trung Quốc là thành công hơn so với các nước khác khi vận dụng mô hình.
Chính vì những khó khăn trên mà Đảng và Nhà nước ta phải luôn có những đường
lối, chính sách trong từng thời kỳ ,từng giai đoạn của quá trình phát triển hay
nói một cách đơn giản đó là những nội dung định hướng XHCN nền kinh tế thị
trường ở nước ta.
Định hướng
XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta đó là định hướng của một xã hội mà
ở đó sự hùng mạnh của quốc gia là nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của dân cư.
Xã hội không còn tình trạng người bóc lột người mọi người làm việc theo năng
lực hưởng theo lao động .Tất nhiên, đây vẫn còn là ước mơ của Nhà nước ta song
là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta xây dựng các mục tiêu một cách phù hợp.
Đó là việc
thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, nền kinh tế của nước ta có
trình độ phát triển cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, kinh tế nhà nước
phải phát huy được vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác làm nền tảng cho
chế độ xã hội mới, Nhà nước quản lý nền kinh tế vì mục tiêu dân giàu nước mạnh
xã hội công bằng văn minh, kinh tế của ta là nền kinh tế dân tộc hoà nhập với
nền kinh tế thế giới.
Xét trên
góc độ vi mô thì doanh nghiệp là "tế bào" của thực thể kinh tế thì nó
cũng chịu sự tác động của các hoạt động trong nền kinh tế. Mà trước tiên nó sẽ
chịu sự tác động của các quy luật trong nền kinh tế thị trường.Như các quy luật
giá trị, cạnh tranh, cung cầu và lưu thông tiền tệ.
Nhưng dù
là nền kinh tế thị trường theo đường lối TBCN hay theo đường lối XHCN thì nó
cũng có những đặc trưng chung nhất định.Vì vậy trước tiên chúng ta phải đi tìm
hiểu về các đặc điểm này để từ đó mới dẫn dắt theo con đường mà ta lựa chọn.
Trước tiên, ta phải thấy rằng nền
kinh tế thị trường có tính tự chủ của
các chủ thể kinh tế rất cao. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp thì
các doanh nghiệp hoạt động rất bị động tất cả đều do cấp trên đưa xuống các chỉ
tiêu phải hoàn thành kế hoạch trong năm...điều này khiến cho các doanh nghiệp
không có sự năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng
trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp luôn phải vận động để làm sao
có thể bù đắp được chi phí và kinh doanh có lãi đồng thời phải chịu trách nhiệm
trước kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
Trên thị
trường hàng hoá rất phong phú, chính do sự năng động của từng doanh nghiệp để
có thể tồn tại và phát triển mà họ phải luôn tìm cách tạo ra những sản phẩm có
chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hàng hoá phải có nhiều chủng loại để có thể đáp ứng
một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Đây được coi là một ưu việt của
nền kinh tế thị trường nó sẽ giúp cho xã hội ngày càng phát triển.
Giá cả
hàng hoá được quyết định ngay trên thị trường do sự tác động qua lại của cung và
cầu. Vì vậy, giá cả trong nền kinh tế thị trường không bao giờ cố định nhưng
cái quyết định vẫn là giá trị.
Cạnh tranh
là một tất yếu của thị trường bởi các doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá
đều mong muốn và coi mục tiêu cuối cùng của mình là thu được lợi nhuận. Chính
vì vậy, mà khi tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường họ phải chịu sự
cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ trong cùng một ngành hoặc khác ngành. Cạnh
tranh sẽ đào thải những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không có hiệu quả và
sẽ giúp cho các doanh nghiệp "chiến thắng " có được nhiều kinh nghiệm
hơn trên thương trường và lớn mạnh hơn về tiềm lực kinh tế.
Kinh tế thị
trường là hệ thống kinh tế mở. Kinh tế thị trường luôn đòi hỏi sự mở cửa, bởi
một nền kinh tế mà hàng hoá luôn dồi dào thì sẽ dẫn đến sự ứ đọng hàng hoá
trong nước nếu ta không mở cửa, khiến dẫn đến hiện tượng khủng hoảng thừa nó
đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những giao dịch với nước ngoài để có thể làm
giảm được hàng hoá thừa đồng thời nhờ có nền kinh tế mở mà ta có thể có được
các loại hàng hoá mà ta còn thiếu hoặc chưa sản xuất được. Đặc biệt trong điều
kiện hiện nay khi mà quốc tế hoá ngày càng lớn thì việc mở cửa là một vấn đề
hết sức quan trọng.
1.1.1.2 ảnh hưởng của nền
kinh tế thị trường đối với nghiệp vụ bán hàng
Kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp trước hết phải giải đáp các vấn
đề: kinh doanh hàng hoá gì, hướng tới đối tượng khách hàng nào và kinh doanh
như thế nào.
Nếu như
trước đây các doanh nghiệp thương mại hoạt động theo một hệ thống các chỉ tiêu
từ trên xuống dưới: vốn do nhà nước cấp, kế hoạch mua bán, giá cả đã có sẵn chỉ
việc tuân theo, lãi doanh nghiệp hưởng, lỗ nhà nước chịu…Khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường không còn được nhà nước bao cấp nữa, các doanh nghiệp thương
mại phải tự tìm hướng đi cho mình, tự hạch toán độc lập. Do vậy, mỗi doanh
nghiệp thương mại phải đề ra chiến lược kinh doanh đúng đắn để có thể đạt được
mục tiêu của mình trong cuộc cạnh tranh đầy khắc nghiệt này. Có thể nói, tiêu
thụ hàng hoá trong nền kinh tế thị trường là quá trình gồm nhiều hoạt động:
nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng, các chính sách và hình thức
bán hàng…để doanh nghiệp tiếp cận được với khách hàng, thoả mãn nhu cầu của
khách hàng. Do có sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế nên doanh nghiệp
phải nắm bắt rõ nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, phục vụ cho họ những sản
phẩm tốt nhất cả về kiểu dáng, chất lượng, giá cả cùng các dịch vụ kèm theo.
Vì vậy các
nhà kinh doanh cần tìm kiếm những biện pháp thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá và từ đó
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung. Qua hoạt động bán hàng doanh
nghiệp từng bước chiếm lĩnh thị trường, thu lợi nhuận, tạo dựng vị thế và uy
tín của mình trên thương trường.
1.1.2 Đặc điểm nghiệp vụ bán hàng trong doanh
nghiệp thương mại
1.1.2.1 Khái niệm bán hàng
Bán hàng
là quá trình trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán để thực hiện giá trị
của hàng hoá, dịch vụ. Trong quá trình đó doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng còn khách hàng phải trả cho doanh nghiệp khoản
tiền tương ứng với giá bán của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ theo giá qui định
hoặc giá thoả thuận. Hàng hoá trong các doanh nghiệp thương mại là hàng hoá mua
vào đế bán ra nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu. Quá trình
bán hàng là quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn hàng hoá sang vốn bằng
tiền và hình thành kết quả kinh doanh. Quá trình bán hàng hoàn tất khi hàng hoá
được chuyển giao cho người mua và doanh nghiệp đã thu được tiền bán hàng hoặc khách
hàng chấp nhận thanh toán.
Qua đó, ta
có thể khái quát đặc điểm chủ yếu của quá trình bán hàng như sau:
-
Về
mặt hành vi: Có sự thoả thuận trao đổi diễn ra giữa người mua và người bán.
Người bán đồng ý bán, người mua đồng ý mua, người bán xuất giao hàng cho người
mua, người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
-
Về
bản chất kinh tế: Bán hàng là quá trình thay đổi quyền sở hữu hàng hoá. Sau khi
bán hàng quyền sở hữu hàng hoá chuyển cho người mua, người bán không còn quyền
sở hữu về số hàng đã bán.
Thực hiện
quá trình bán hàng, đơn vị bán xuất giao cho khách hàng một khối lượng hàng hoá
nhất định theo thoả thuận hoặc hợp đồng đã ký kết và sẽ nhận lại từ khách hàng
một khoản tiền tương ứng với giá bán số hàng hoá đó.
Doanh thu
bán hàng được hình thành đó chính là nguồn bù đắp chi phí và hình thành kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Về nguyên
tắc chỉ khi nào chuyển quyền sở hữu hàng hoá từ đơn vị bán sang khách hàng và
khách hàng thanh toán tiền hoặc chấp nhận thanh toán thì hàng mới được coi là
bán, lúc đó mới phản ánh doanh thu. Do đó tại thời điểm xác nhận là bán hàng và
ghi nhận doanh thu có thể doanh nghiệp thu được tiền hàng hoặc cũng có thể chưa
thu được vì người mua mới chấp nhận trả.
1.1.2.2 Vai trò của bán
hàng
Bán hàng
là giai đoạn cuối cùng của quá trình tuần hoàn vốn và nó là cơ sở để xác định
kết quả bán hàng.
Với các
doanh nghiệp, bán được hàng thì mới có thu nhập để bù đắp chi phí đã bỏ ra và
có lãi. Xác định chính xác doanh thu bán hàng là cơ sở để đánh giá các chỉ tiêu
kinh tế –tài chính, trình độ hoạt động của đơn vị và thực hiện nghĩa vụ đối với
ngân sách Nhà nước.
Đối với
người tiêu dùng công tác bán hàng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của khách
hàng. Chỉ có thông qua bán hàng thì tính hữu ích của hàng hoá mới được thực
hiện và được xác định về mặt số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian, sự
phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng mới được xác định rõ. Như vậy bán hàng là
điều kiện để tái sản xuất xã hội.
Quá trình bán hàng còn ảnh
hưởng đến quan hệ cân đối giữa các nghành, giữa các doanh nghiệp với nhau, tác
động đến quan hệ cung cầu trên thị trường.Công tác bán hàng của doanh nghiệp mà
tổ chức tốt, thông suốt sẽ tác động đến hoạt động mua hàng, sản xuất, dự trữ,
tạo điều kiện thúc đẩy quá trình kinh doanh tiến hành một cách nhanh chóng,
đồng vốn được luân chuyển nhanh. Kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp mới có điều
kiện mở rộng thị trường, nâng cao nghiệp vụ, trình độ quản lý và đời sống của
cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, tạo nguồn tích luỹ quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Một doanh nghiệp được coi là kinh doanh có hiệu quả nếu
có tích luỹ và toàn bộ chi phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh đều được bù đắp
lại bằng thu nhập về bán hàng.
Bán hàng
là điều kiện vô cùng quan trọng để doanh nghiệp đứng vững trên thị trường. Do
đó công tác bán hàng cần phải được nắm bắt, theo dõi chặt chẽ, thường xuyên quá
trình bán hàng từ khâu mua hàng, dự trữ, bán hàng, thanh toán thu nộp kịp thời
đảm bảo xác định kết quả kinh doanh đúng tránh hiện tượng lãi giả, lỗ thật.
1.1.2.3 Các phương thức
bán hàng
1.1.2.3.1 Phương thức
bán buôn
Bán buôn
là việc bán hàng cho các đơn vị, cá nhân (những người trung gian) để họ tiếp
tục chuyển bán hoặc bán cho người sản xuất để tiếp tục sản xuất ra sản phẩm.
Hàng hoá sau khi bán vẫn còn nằm trong lưu thông, hoặc trong sản xuất, chưa đến
tay người tiêu dùng cuối cùng. Bán hàng theo phương thức này thường bán với
khối lượng lớn và có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Trong doanh nghiệp thương
mại, bán buôn hàng hoá thường áp dụng hai phương thức:
¨
Bán
buôn qua kho: là
phương thức bán hàng mà hàng hoá được đưa về kho của đơn vị rồi mới tiếp tục
chuyển bán. Bán buôn qua kho được tiến hành dưới hai hình thức:
-
Bán
buôn qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp : theo hình thức này bên mua cử cán bộ nghiệp vụ trực tiếp
đến nhận hàng trực tiếp tại kho của bên
bán. Số hàng được xác định là tiêu thụ khi đại diện bên mua ký nhận hàng và đã
trả tiền hoặc chấp nhận nợ.
-
Bán
buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng : theo hình thức này bên bán xuất kho để giao hàng cho bên
mua tại địa điểm người mua đã qui định trong hợp đồng kinh tế giữa hai bên bằng
phương tiện vận tải tự có hoặc thuê ngoài. Khi hàng hoá vận chuyển thì vẫn
thuộc bên bán. Chứng từ gửi hàng đi là phiếu gửi hàng, vận đơn vận chuyển.
Chứng từ bán hàng cũng là hoá đơn hoặc phiếu xuất kho kiêm hoá đơn. Hàng hoá
gửi đi chưa phải là bán mà vẫn thuộc quyền sở hữu doanh nghiệp. Hàng gửi đi
được xác định là tiêu thụ khi bên mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
¨
Bán
buôn vận chuyển thẳng:
Là trường hợp hàng hoá bán cho bên mua được giao thẳng từ kho của bên cung cấp
hoặc giao thẳng từ bến cảng nhà ga chứ không qua kho của công ty. Bán buôn vận
chuyển thẳng là phương thức bán hàng tiết kiệm nhất vì nó giảm được chi phí lưu
thông, tăng nhanh sự vận động của hàng hoá. Nhưng phương thức này chỉ áp dụng
trong trường hợp cung ứng hàng hoá có kế hoạch, khối lượng hàng hoá lớn, hàng
bán ra không cần chọn lọc, bao gói. Phương thức này có thể thực hiện theo các
hình thức sau:
-
Bán
buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao trực tiếp (hình thức giao tay ba) : Theo hình thức này, doanh nghiệp tiến hành buôn bán với bên cung cấp về mua hàng đồng thời tiến
hành thanh toán với bên mua về bán hàng. Cả 3 bên cùng chứng kiến việc giao
nhận hàng hoá. Khi bên mua ký nhận đủ hàng và đã trả tiền hoặc chấp nhận nợ thì
hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
-
Bán
buôn vận vận chuyển thẳng theo hình thức vận chuyển hàng :Theo hình thức này, doanh nghiệp
thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua, bằng phương tiện vận tải tự có hoặc
thuê ngoài chuyển hàng đến giao cho bên mua tại địa điểm đã qui định trong hợp
đồng kinh tế. Hàng hoá được xác định là tiêu thụ khi nhận được tiền của bên mua
thanh toán hoặc giấy báo của bên mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán.
1.1.2.3.2 Phương thức
bán lẻ hàng hoá
Bán lẻ là
bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng để thoả mãn nhu cầu cá nhân và tập thể.
Hàng hoá sau khi bán đi vào tiêu dùng trực tiếp, kết thúc khâu lưu thông. Khối
lượng hàng bán thường nhỏ, phong phú đa dạng cả về chủng loại, mẫu mã. Trong
bán lẻ có thể áp dụng các hình thức sau:
¨
Hình
thức bán hàng thu tiền trực tiếp : Đây
là hình thức bán hàng mà nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách hàng
và giao hàng cho khách. Trong hình thức này nhân viên bán hàng là người chịu
trách nhiệm vật chất về số hàng đã nhận ra quầy để bán lẻ. Để phản ánh rõ số
lượng hàng nhận ra và đã bán thì nhân viên bán hàng phải tiến hành hạch toán nghiệp vụ trên các thẻ
hàng ở quầy hàng. Thẻ hàng được mở cho từng mặt hàng để ghi chép sự biến động
của hàng hóa trong từng ca, từng ngày. Cuối ca, ngày nhân viên bán hàng phải
kiểm tiền, làm giấy nộp tiền bán hàng trong ca, cuối ngày để ghi chép vào thẻ
và lập báo cáo bán hàng. Phương thức này áp dụng phổ biến ở những công ty
thương mại bán lẻ vì tiết kiệm được lao động, khách mua hàng thuận tiện nhưng
nếu không quản lý chặt chẽ dễ xảy ra tiêu cực, mất tiền…
¨
Hình
thức bán hàng thu tiền tập trung: Là phương thức bán hàng mà nghiệp vụ bán hàng và thu tiền
tách rời nhau, mỗi quầy hàng có nhân viên thu ngân làm nhiệm vụ viết hoá đơn
hoặc tích kê thu tiền của khách mua hàng. Khách hàng sẽ cầm hoá đơn hoặc tích
kê đến nhận hàng ở quầy do nhân viên thu ngân giao và trả hoá đơn, tích kê cho
nhân viên bán hàng. Cuối ca, cuối ngày nhân viên thu ngân kiểm tiền làm giấy
nộp tiền bán hàng, còn nhân viên bán hàng căn cứ vào số hàng đã giao theo các
hoá đơn và tích kê thu lại hoặc kiểm kê hàng hoá còn lại cuối ca, cuối ngày để
xác định hàng hóa đã giao, lập báo cáo bán hàng trong ca(ngày). Đối chiếu số
tiền nộp theo giấy nộp tiền với doanh thu bán hàng theo các báo cáo bán hàng để
xác định thừa và thiếu tiền hàng. Do có việc tách rời giữa người bán và người
thu tiền như vậy sẽ tránh được sai sót, mất mát hàng hoá và tiền. Người bán chỉ
giao hàng nên tránh được nhầm lẫn về tiền hàng trong quá trình bán, mặt khác họ
sẽ có nhiều thời gian để chuẩn bị hàng hoá phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuy vậy,
hình thức này lại gây phiền hà cho khách hàng, vì thế chỉ áp dụng với những mặt
hàng có giá trị cao.
¨
Hình
thức bán hàng trả góp:
Là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần. Người mua sẽ thanh toán lần đầu tại
thời điểm mua. Số tiền còn lại người mua chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp theo.
Ngoài số tiền phải trả theo giá mua hàng hoá, người mua còn phải trả thêm một
khoản tiền lãi do trả chậm. Theo hình thức trả góp, về mặt hạch toán khi giao
hàng cho người mua thì lượng hàng chuyển giao được coi là tiêu thụ. Hình thức
này giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, thu hút được nhiều khách
hàng.
¨
Hình
thức bán hàng tự phục vụ:
Hình thức này hiện đang phát triển mạnh mẽ ở nước ta, được tổ chức dưới dạng
cửa hàng tự chọn hoặc siêu thị. Khách hàng đến mua hàng tự do lựa chọn rồi mang ra bộ phận thu tiền để thanh toán.
Nhân viên thu ngân tính rồi thu tiền của khách hàng lập hoá đơn bán hàng và
cuối ngày nộp tiền cho thủ quỹ. Hình thức này đòi hỏi vốn đầu tư lớn vì phải
trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào việc bán hàng.
1.1.2.3.3 Phương thức bán hàng đại lý
Là phương thức mà doanh nghiệp thương mại
xuất hàng giao cho bên nhận đại lý để bán. Bên đại lý sẽ trựctiếp bán hàng,
thanh toán tiền cho doanh nghiệp thương mại và được hưởng hoa hồng đại lý. Số
hàng gửi đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và được xác định là
tiêu thụ khi doanh nghiệp nhận được tiền do bên đại lý thanh toán hoặc nhận
giấy báo chấp nhận thanh toán.
1.1.2.4 Giá cả hàng hoá
Các doanh nghiệp thương mại
hiện nay trên thị trường đều cạnh tranh với nhau bằng giá cả và chất lượng hàng
hoá. Tuy nhiên, dù hàng hoá có chất lượng tốt đi chăng nữa mà giá lại quá cao
thì không thể thu hút được khách hàng. Bởi vậy, giá cả là một trong những yếu
tố vô cùng quan trọng, là vũ khí chiến lược có vai trò quyết định đến doanh thu
và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận được coi
là một tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng mà mỗi doanh nghiẹp đều hướng
tới. Vì thế, việc xác định giá bán là một công việc rất khó khăn, mỗi doanh
nghiệp phải tự xác định cho mình mức giá phù hợp dựa vào nhu cầu thị trường,
điều kiện của mình…Hiện nay doanh nghiệp thường xác định giá bán theo công
thức:
Giá bán = Giá
mua thực tế + Thặng số thương mại
Thặng số
thương mại = Giá mua thực tế x Tỉ lệ(%)thặng số thương mại
Từ đó ta có:
Giá bán = Giá
mua thực tế x [ 1+Tỉ lệ (%) thặng số thương mại ]
1.1.2.5 Các phương thức
thanh toán
Trong quá trình hoạt động kinh doanh
các doanh nghiệp thường xuyên phát sinh các hoạt động thanh toán với các đơn
vị, tổ chức và cá nhân có liên quan như thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ với
người cung cấp, thanh toán tiền thuế với cơ quan thuế…Mặt khác với tư cách là
một nhà cung cấp, doanh nghiệp cũng nhận thường xuyên các khoản thanh toán từ
các khách hàng của mình. Việc thanh toán tiền hàng được tiến hành theo nhiều
phương thức, có thể trả tiền trước, trả tiền ngay, trả tiền sau tuỳ theo sự
thoả thuận mua bán giữa hai bên. Đồng thời nó đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên
và nó giúp cho việc quản lý tiền vốn trong doanh nghiệp phù hợp với sự vận động
của chúng. Hiện nay các doanh nghiệp thương mại áp dụng 2 hình thức chủ yếu
sau:
¨
Phương
thức thanh toán ngay :
Sau khi giao hàng cho bên mua và bên mua chấp nhận thanh toán luôn, bên bán có
thể thu tiền hàng ngay bằng tiền mặt, séc, hoặc có thể bằng hàng ( nếu bán hàng
theo phương thức hàng đổi hàng ). Phương thức này áp dụng đối với khách hàng
không thường xuyên liên tục giao dịch thì trước khi nhận hàng phảI thanh toán
đầy đủ tiền hàng theo hoá đơn. Nếu muốn nợ lạI phảI có tàI sản thế chấp hay tín
chấp của công ty, cá nhân khác đứng ra cam đoan trả đúng hạn theo quy định.
¨
Phương
thức thanh toán chậm trả :
Theo phương thức này, bên bán sẽ nhận được tiền hàng sau một khoảng thời gian
mà hai bên thoả thuận trước. Do đó hình thành khoản công nợ phảI thu của khách
hàng. Nợ phảI thu cần được hạch toán chi tiết cho từng đối tượng phảI thu. Việc
cho khách hàng nợ hay là thanh toán sau đối với doanh nghiệp chỉ hạn chế trong
một thời gian ngắn mà cho một số ít khách hàng mua bán thường xuyên, có tín
nhiệm, làm ăn lâu dài.
Tags:
Download,
Kế toán bán hàng và công nợ phải thu,
Luận Văn Kế Toán
Ý kiến bạn đọc [ 0 ]
Ý kiến của bạn